(VHQN) – Quá trình cộng đồng và lưu trữ văn hóa trong lịch sử đại Châu Ấn đã tạo nên sự giao thoa văn hóa ẩm thực Nhật Bản – Việt Nam phố Hội.
Sách thực tế Nhật Bản (Washoku) đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại vào năm 2013, là nét văn hóa quan trọng, định hình nhiều mặt khác nhau trong đời sống của người Nhật, dựa trên tinh thần “tôn trọng thiên nhiên” có truyền thống từ xa xưa.
Ngay tên gọi Washoku, chữ Hán là 和 食 (Hòa thực), chuyển tải triết lý ẩm thực của người Nhật Bản là: hòa – kính – thanh – tịnh, về sau nâng cấp thành nguyên tắc triết trong Trà đạo Nhật Bản .
Washoku không chỉ phản hồi ánh sáng của ẩm thực Nhật Bản mà có thể hiển thị tinh thần ham học hỏi, tìm kiếm ẩm thực, nghiên cứu khi tiếp thu và giao thoa với các nền tảng đến từ Trung Quốc, và các nước Tây Âu . Từ đó, được chuyển đổi thành một nền ẩm thực đặc biệt, đậm đặc phong cách Nhật Bản, đặc sắc và tinh tế, từ phong cách đến bài trí, thưởng thức.
Ẩm thực Nhật Bản đặc biệt
Nhật Bản là quốc gia chịu ảnh hưởng từ “văn minh lúa nước” như những nước châu Á láng giềng. Vì thế, từ 2.000 năm trước, Nhật Bản cũng lấy lúa gạo làm lương thực chính trong các bữa ăn.
Đầu thế kỷ 6, khi Phật giáo du nhập Nhật Bản, lan tỏa và có tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội, thì việc ăn chay của Phật giáo thiền tông ở Nhật Bản có đề cao, dẫn đến việc hình thành nhiều món ăn chay được chế biến từ rau củ, đồng thời tạo tiền đề cho các loại tương, sốt, gia vị làm từ rau củ, đậu… hình thành và phát triển đến tận ngày nay.
Thời kỳ Edo (1600 – 1868), những bữa ăn của hoàng gia và giới quý tộc Nhật Bản được trau dồi hơn và nâng lên một tầm cao mới. Quy tắc ẩm thực Nhật Bản lúc này được hình thành với chính thức, là: ẩm thực Honzen (phục vụ bữa ăn chính); ẩm thực Kaiseki (phục vụ bàn tiệc) và ẩm thực Cha-Kaiseki (phục vụ tiệc trà).
Mỗi ẩm thực định dạng có những quy chuẩn về món ăn, cách bài trí và cả cách ứng dụng trong văn hóa ẩm thực. Tuy nhiên, các thức ẩm thực cao cấp và quá cầu kỳ của thời kỳ Edo đã dần dần mai một, nhường chỗ cho ẩm thực có sự giao thoa giữa Nhật Bản với thế giới.
Hình là món tempura (thực phẩm chiên rán), rất phổ biến ở Nhật Bản ngày này, được người Nhật học hỏi từ các nhà truyền giáo Châu Âu đầu thế kỷ 16, hay món cari có nguồn gốc từ Ấn Độ, được một sĩ quan người Anh truyền bá vào Nhật Bản từ những năm đầu thế kỷ 20.
Authentic Nhật Bản có lớn đặc tính, là triết lý và tính hài hòa. Ẩm thực Nhật Bản, ngoài sự việc tinh tế và độc đáo, còn góp phần tăng cường sức khỏe và tuổi thọ cho người Nhật Bản. Người Nhật Bản hiện nay có Hướng dẫn quay về tìm lại hương vị có sẵn trong nguyên liệu khi chế biến thức ăn, tốt hơn là sử dụng các loại gia vị, vốn làm thay đổi hương vị của món ăn.
Người Đó là: ngũ vị (ngọt, chua, cay, mặn, đắng); ngũ sắc (trắng, vàng, đỏ, xanh, đen, gồm: sắc trắng của cơm gạo, sắc vàng của củ cải, sắc đỏ của thịt cá hoặc cải chua, sắc xanh của rau củ và màu đen là của hạt) ; và ngũ pháp (tươi / sống, ninh / hầm, nướng, chiên, hấp).
Ẩm thực Nhật Bản không chỉ “ăn bằng tay” mà còn “ăn bằng mắt”, nghĩa là khi tiếp cận với ẩm thực Nhật Bản, thực khách phải sử dụng tất cả các giác quan để cảm nhận: xúc giác (tay) khi ăn sushi ; khứu giác (mũi) khi ăn sashimi; giác và giác (khi ăn những món cá sống và nổ lách tách trong thực khách) và thị giác (thỏa mãn nhãn với cách bài trí đẹp mắt của món ăn).
Tính hài hòa của món ăn không chỉ ở cách bài trí, các công cụ thực hiện và biến chế, mà có thể được hiển thị ở tôn trọng hương vị có sẵn của nguyên liệu làm món ăn thuần túy và giữ toàn bộ hơn độ dinh dưỡng trong từng món ăn.
Giao lưu văn hóa ẩm thực – Việt
Thời kỳ Shuinsen (Châu Ấn biển) và đầu thế kỷ 17, Nhật Bản mở rộng hải thương và Hội An ở Đàng Trong của Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn và thân thiện với tàu và hào thương người Nhật.
Một số kết quả nghiên cứu cho biết, vào đầu thế kỷ 17, có chừng 300 người Nhật sinh sống ở Hội An. Ngoài công việc kết nối thương mại hai chiều, nhiều hào thương Nhật Bản và thân nhân của họ đã chọn Hội An làm quê hương thứ hai để sinh sống. Họ kết hôn với người Việt và tất cả đều có quá trình lưu trữ ẩm thực Nhật Bản – Việt trong cộng đồng người Nhật cùng địa phương cộng đồng.
Có thể vì thế mà ẩm thực ở Hội An trở nên phong phú và đa dạng, nhờ quá trình lưu trữ này. Hạn chế, món cao lầu là một minh chứng xác định nét vẽ cho việc giao thoa ẩm thực giữa ba sắc dân: Việt, Hoa và Nhật vào thế giới kỷ 17.
Cao lầu Hội An và món udon của Nhật Bản có những nét tương đồng: từ sợi cao lầu đến sợi mì udon đều được làm từ dẻo, có kiểu dáng và màu sắc giống nhau, đến nước lèo của cao lầu nấu từ nước thịt xá xíu chan thấm ướt cho vừa đủ ăn, kèm theo rau sống vùng Trà Quế sốt và tóp mỡ chiên giòn, tương tự như nước dùng trong món udon của người Nhật, cũng nấu với thịt heo và nêm bằng nước tương tương có màu nâu như màu nước lèo cao lầu.
Người Việt cũng có triết lý ẩm thực tương đồng Nhật Bản, như triết lý âm dương – ngũ hành trong ẩm thực. Washoku truyền thống của người Nhật có nguyên tắc “Ichi juu san sai” (mỗi bữa ăn có một món canh, ba món mặn và cơm), thì bữa ăn của người Việt cũng bao gồm ba món: cơm, rau, thịt / cá (món mặn).
Đặc biệt, quán ăn uống ở người Hội An và người Nhật đều có những người kiêng cữ theo truyền thống, chẳng hạn như: trong ngày Tết Nguyên đán chỉ ăn thịt gà, không ăn thịt vịt; khi ăn cá thì phải gỡ xương, không lật được cá; dân cữ ăn cá xanh xương, cá nạng …; người thổi / đau không được ăn trứng vịt; người hen / suyễn không được ăn thịt gà …