Ung thư cổ tử cung là loại phụ khoa thư thường gặp ở nước ta. This is a ung thư loại có thể được điều chỉnh và tốt nhất nếu được phát hiện sớm và điều chỉnh kịp thời. If phát hiện bệnh ở giai đoạn trễ hơn, lượng sống đầu tiên sẽ giảm đi đáng kể. Vậy ung thư cổ tử cung là gì, dấu hiệu và mức độ nguy hiểm của ung thư cổ tử cung ở giai đoạn 3 như thế nào, các phương pháp điều trị ở giai đoạn này ra sao, hãy cùng xem bài viết dưới đây của Thạc sĩ, Bác sĩ Võ Kiến Thái để có câu trả lời cho những câu hỏi thắc mắc này nhé!
Ung thư cổ tử cung là gì?
Ung thư cổ tử cung là một loại ung thư xuất hiện trong tế bào của cổ tử cung, chính là phần bên dưới của tử cung kết nối với âm đạo.
Các khác nhau của vi rút u nhú ở người (HPV), một bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục, có vai trò cho ra hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung.1
Khi một người bị nhiễm virus HPV rút ra, hệ thống miễn dịch của cơ thể người đó thường chặn không cho vi rút gây hại. Tuy nhiên, ở một số tỷ lệ nhỏ, vi rút HPV sẽ tồn tại bên trong cơ thể trong nhiều năm, góp phần vào quá trình tạo ra một số tế bào ở cổ tử cung trở thành tế bào ung thư.1
Một người phụ nữ có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung bằng cách làm các xét nghiệm sàng lọc và tiêm vắc-xin bảo vệ chống lại sự phơi nhiễm với vi rút HPV.1
Trong thử nghiệm Pap, bác sĩ sử dụng vịt âm đạo để giữ các âm thanh của người bệnh tách ra và để quan sát cổ tử cung. Tiếp theo, một tế bào mẫu từ cổ tử cung được thu thập bằng cách sử dụng một bàn nhỏ hình dạng và một mặt phẳng nhỏ bằng nhựa (1 và 2). Sau đó, bác sĩ sẽ rửa sạch bàn và rửa sạch bàn phím trong một lọ chứa đầy đủ các chất (3) và gửi đến các phòng thí nghiệm để kiểm tra.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn 3 là gì?
Giai đoạn của một loại ung thư bất kỳ cho biết mức độ lớn của loại ung thư đó và tài liệu rằng nó có căn cứ hay không. Việc phân chia giai đoạn bệnh giúp bác sĩ điều trị quyết định chiến lược và các phương pháp điều trị đều phù hợp với người bệnh.2
Show nay, các loại phân tích hệ thống của Liên đoàn Sản xuất quốc tế (FIGO) được các bác sĩ sử dụng để sắp xếp giai đoạn cho bệnh ung thư cổ tử cung. Có 4 giai đoạn được đánh số từ 1 đến 4 theo mức độ từ sớm đến sớm.2
Giai đoạn 3 có nghĩa là ung thư từ cổ tử cung và phân loại vào các cấu trúc xung quanh khung (khu vực giữa các xương hông). It has been or not lan to the chuỗi bạch huyết. Ngoài ra, tế bào ung thư có thể ngăn chặn các phần bên dưới của âm thanh, các dây và dây ở vùng (vách ngăn). Ổ đĩa, nó có thể phát triển và làm việc tiểu đường ống dẫn từ thận (quản lý).2
Giai đoạn 3 có thể được chia thành 3 giai đoạn nhỏ hơn là:
Giai đoạn 3A
Khi tế bào ung thư lan đến một phần ba âm dưới đạo nhưng không bị ngăn cản.
Giai đoạn 3B
Khi tế bào ung thư đã ngăn chặn bào đập hoặc làm tắc nghẽn quản trị hoặc hai bên.
Giai đoạn 3C
Được chia thành giai đoạn 3C1 và 3C2 nếu kết quả hình ảnh học cho thấy ung thư đến hạch bạch huyết với kích thước khối u ở bất kỳ vùng nào và không di chuyển xa đến các cơ quan khác của cơ thể.
- Giai đoạn 3C1: Khi tế bào ung thư di căn hạch.
- Giai đoạn 3C2: Khi tế bào ung thư di căn hạch động mạch chủ.
Dấu hiệu ung thư cổ tử cung giai đoạn
Ung thư cổ tử cung bắt đầu thành hình khi tế bào khỏe mạnh của cổ tử cung phát triển những thay đổi (hay còn gọi là biến) trong DNA của chúng tôi. DNA của tế bào có vai trò quyết định chức năng và nhiệm vụ của mỗi tế bào.3
Các tế bào khỏe mạnh phát triển và nhân lên theo một định mức tốc độ, cuối cùng sẽ chết vào một điểm định vị nhất định. Các biến thể làm cho tế bào phát triển và nhân lên bên ngoài tầm kiểm soát, và chúng tôi sẽ không chết theo trình thiết lập. Các tế bào tế bào tụ lại tạo thành một khối (block u). Tế bào ung thư phân loại các tổ chức lân cận và có thể tan vỡ khỏi khối u để lây lan (di căn) đến những nơi khác trong cơ thể.
Unknown kernel give a ung thư cổ tử cung, nhưng chắc chắn rằng vi rút HPV đóng một trò chơi nào đó. Vi rút HPV rất phổ biến, và hầu hết các người kiểm tra rút ra không bao giờ phát triển thành thư. Điều này có nghĩa là khác yếu tố – không hạn chế như môi trường hoặc lựa chọn lối sống của một người – cũng được xác định bởi người đó có phát triển ung thư cổ tử cung hay không.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu thường không có dấu hiệu hoặc chứng chỉ. Ở giai đoạn trễ hơn, chẳng hạn như giai đoạn 3, các dấu hiệu và giấy chứng nhận của ung thư cổ tử cung có thể bao gồm:3
- Chảy máu âm đạo sau khi giao hợp, giữa các chu kỳ kinh hoặc sau khi mãn kinh
- Dịch âm đạo chảy nước, có máu, mức độ có thể nặng và có mùi hôi
- Is a beat orbreak in when the transaction
Hãy đến khám với bác sĩ nếu người bệnh có bất kỳ dấu hiệu hoặc bất kỳ chứng chỉ nào làm cho người nghe cảm nhận được.1
Ung thư giai đoạn 3 có nguy hiểm không?
Theo nghiên cứu, tỷ lệ sống sót nếu các biến đổi ứng dụng tiền thư hoặc ung thư giai đoạn sớm được phát hiện và thời gian điều chỉnh là gần 100%. Tiên lượng đối với ung thư cổ tử cung cấp phần phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, cụ thể:3
- Hơn 90% phụ nữ ở giai đoạn 0 sống sót ít nhất 5 năm sau khi đoán.
- Bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn I có tỷ lệ sống sót sau 5 năm dao động từ 80% đến 93%.
- Phụ nữ bị ung thư cổ tử cung giai đoạn II có tỷ lệ sống sót sau 5 năm khoảng từ 58% đến 63%.
- Tỷ lệ sống sót đối với phụ nữ bị ung thư cổ tử cung giai đoạn III chỉ khoảng 32% đến 35%.
- Không quá 16% phụ nữ bị ung thư cổ tử cung giai đoạn IV sống sót sau 5 năm.
The gioi thieu va ung dung dieu tri, cổ tử cung giai đoạn 3
Firewall for old death cung1
Thông qua các chứng chỉ của người bệnh, nếu nghi ngờ ung thư cổ tử cung, bác sĩ có thể bắt đầu với công việc kiểm tra cổ tử cung bằng cách sử dụng một công cụ chuyên biệt (soi cổ tử cung) để kiểm tra tra bất thường bào tế bào.
Trong quá trình kiểm tra cổ tử cung, bác sĩ có thể sẽ lấy một mẫu tế bào ở cổ tử cung (sinh thiết bị) để làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. To get the model, bác sĩ có thể sử dụng các phương pháp:
- Sinh bằng kềm bấm: Đây là phương pháp sử dụng một công cụ nhọn để kẹp và lấy các mẫu nghi ngờ nhỏ ở cổ tử cung.
- Nạo nội dung cổ tử cung: This method use a small tool, the shape (gọi là chữa bệnh) hoặc một bàn mềm để làm một mô hình từ cổ tử cung.
If sinh ra bằng kềm bấm hoặc nội dung cổ tử cung là khó thực hiện hoặc chống chỉ định, bác sĩ có thể thực hiện một trong các thử nghiệm sau:
- Sinh bằng vòng điện: Đây là thủ thuật sử dụng một dây điện mỏng, có điện áp thấp để lấy một mô hình nhỏ. Thông thường, this thủ thuật được thực hiện dưới gây tê tại chỗ.
- Sinh thiết bị tạo hình (còn gọi là ống kính): Là một thủ thuật cho phép bác sĩ lấy được các lớp tế bào sâu hơn của cổ tử cung để kiểm tra tế bào học. Khoét quạt nên được thực hiện tại bệnh viện dưới sự trao tặng toàn thân.
Fire Giai đoạn1
Sau khi xác định rằng bạn bị ung thư cổ tử cung, người bệnh sẽ phải làm các xét nghiệm khác để xác định mức độ (giai đoạn) của bệnh ung thư. Giai đoạn ung thư là một trong những trọng yếu tố trong công việc quyết định chiến lược và phương pháp điều trị.
Các thử nghiệm để đánh giá giai đoạn bao gồm:
- Các thử nghiệm hình ảnh học: Các thử nghiệm như chụp X-quang, chụp cắt lớp vi tính (CT SCan), chụp cộng hưởng từ (MRI) và chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) giúp bác sĩ xác định ung thư thư lan ra ngoài cổ tử cung hay chưa. Tùy chọn phương tiện và cơ sở vật chất tại từng bệnh viện mà người bệnh sẽ chỉ được định nghĩa các hình ảnh học tập phù hợp. Người bệnh được xử lý ung thư cổ tử cung giai đoạn 3 khi thấy bào ung thư phân loại lan rộng tại chỗ (xuống phần thấp của âm đạo, phân chia tế bào, tiểu quản) hoặc di căn bạch phân (hạch toán hạt, hạch động mạch chủ).
- Ngoài ra, kiểm tra bàng quang và trực tuyến cũng là một tác vụ không thể thiếu để chẩn đoán giai đoạn bệnh. Bác sĩ có thể sử dụng ống soi chuyên biệt để xem bên trong bàng quang và trực tuyến có khối u phân tán hay chưa. This thủ thuật được gọi là nội soi bàng quang và nội soi trực tràng. Chỉ khi khối u chưa phân loại bảng quang hoặc trực tiếp tràng mới được xếp thành giai đoạn 3.
Điều trị ung thư cổ tử cung giai đoạn 3
Đối với ung thư cổ tử cung giai đoạn 3, thuật toán không còn là phương pháp được lựa chọn đầu tay như trong ung thư cổ tử cung giai đoạn 1 vì lúc này các tế bào ung thư, hoặc đã chuyển rộng tại chỗ (đoạn dưới âm đạo, đập nát), hoặc di chuyển đến hạch bạch (hạch hạch, hạch động mạch chủ). Ở giai đoạn này, hóa xạ và xạ trị là các yếu tố chủ yếu của phương pháp.
Xạ trị1
Xạ trị là phương pháp sử dụng các chùm tia năng lượng cao, chẳng hạn như tia X hoặc proton, để tiêu diệt tế bào ung thư. Xạ trị được kết hợp với dữ liệu trị liệu là phương pháp điều trị chính cho các bệnh ung thư cổ tử cung phát triển tại chỗ.
Xạ trị có thể được thực hiện bằng các định thức:
- Nguồn phát tia xạ ở bên ngoài cơ thể: Phương pháp này được thực hiện bằng cách chiếu một chùm bức xạ từ máy vào vùng cần điều chỉnh trên cơ thể được bác sĩ thiết lập kế hoạch sẵn (gọi là bên ngoài xạ ảnh).
- Nguồn phát tia xạ bên trong cơ thể: Phương pháp này đặt một thiết bị chứa toàn bộ phóng xạ bên trong âm đạo của bệnh nhân, thường chỉ trong vài phút (gọi là xạ trị trong hoặc áp sát trị xạ).
- Kết hợp cả ngoài giá trị và xạ trị trong.
If the people not start up to the kinh, the value may be make people that the fire kinh sớm hơn. Nếu trong trường hợp người bệnh còn trong độ tuổi sinh sản và có kế hoạch mang thai sau khi xạ trị, hãy hỏi bác sĩ về các cách lưu trữ trước khi bắt đầu điều trị.
Hóa trị1
Hóa trị là điều trị phương pháp bằng thuốc, sử dụng các chất hóa học để tiêu diệt tế bào ung thư. Nó có thể được truyền qua tĩnh mạch hoặc uống ở dạng viên thuốc.
Đối với ung thư cổ tử cung giai đoạn phát triển tại chỗ, liều lượng hóa thấp thường được kết hợp với xạ trị, vì hóa trị có thể nâng cao tác dụng của bức xạ. Cao hơn giá trị hóa có thể được đề xuất để giúp kiểm tra các chứng chỉ khi bệnh ung thư đã được phát triển nhiều.
Summary, ung thư cổ tử cung giai đoạn 3 thường có liên quan chứng chỉ đến bất thường âm dịch tiết, đau vùng dưới hoặc đau khi quan hệ tình dục. Tiên lượng sống đối với bệnh nhân giai đoạn 3 khá xấu. Chỉ một phần ba trường hợp mắc kẹt thư cổ tử cung giai đoạn 3 còn sống tại thời điểm 5 năm. Phương pháp yếu tố chủ trị ở giai đoạn này là kết hợp xạ trị và xạ trị. Người bệnh cần đến bệnh viện ngay khi có bất kỳ dấu hiệu nào để được chẩn đoán và có thể sử dụng phù hợp trị liệu.