Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) Nguyễn Văn Hồi cho biết, với tinh thần con người là trung tâm của quá trình phát triển, bảo đảm xã hội chính sách phải được xây dựng và triển khai hài hước hòa, đồng bộ với phát triển kinh tế.
Hệ thống chính sách xã hội năm 2030 hướng đến toàn dân, bao trùm và toàn diện; đáp ứng các nhu cầu an sinh xã hội và dịch vụ xã hội cho nhân dân, tạo cơ hội phát triển cho mọi người dân và không ai bị bỏ lại phía sau; tạo nền tảng xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng, bình đẳng, nhân ái, đoàn kết, tương thích nhau; đáp ứng tiêu chuẩn của nước đang phát triển có công ty hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Việt Nam có kế hoạch sẽ ban hành một quyết định mới về chính sách xã hội cho giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn đến năm 2045 để quản lý và phát triển xã hội phù hợp với mục tiêu trở thành nước đang phát triển có thu nhâp trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Dự kiến quyết định mới sẽ được Ban chấp hành Trung ương khóa XIII để thông qua Hội nghị Trung ương 7, khóa XIII (nửa đầu năm 2023).
Bà Gulmira Asanbaeva, ILO Quyền đại diện tại Việt Nam đánh giá, công việc ban hành và triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đã đánh dấu một bước đột phá, tạo tiền đề cho Việt Nam tiếp cận gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế và các thông tin tốt nhất về an sinh xã hội. ILO sẽ chung tay với Chính phủ Việt Nam, Bộ LĐTBXH và các đối tác để thực hiện tầm nhìn chung về Việt Nam, một quốc gia về an sinh xã hội toàn dân vào năm 2030.
Đánh giá về quá trình thực hiện 10 năm Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI, một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2022, Thứ trưởng Nguyễn Văn Hồi cho rằng: Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI đã đạt được nhiều thành tích quan trọng. Nhận thức của các ủy quyền, chính quyền và nhân dân về chính sách hội có chuyển đổi biến thể, hệ thống chính sách xã hội cơ bản bảo đảm bằng, toàn diện, bao trùm, che phủ các tiêu chuẩn quốc gia tế, bảo đảm bản quyền an sinh của dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và tự xã hội, nâng cấp đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Các chỉ tiêu và mục tiêu quyết định đề ra với nhiều điểm sáng trong lĩnh vực có công, giảm nghèo và xã hội sinh, trong tổng số 26 tiêu chí chỉ có 5 tiêu chuẩn và hoàn thành trước thời hạn và 16 tiêu chuẩn chỉ vào năm 2020.
Viện trưởng Khoa học Lao động và Xã hội Bùi Tôn Hiến thông tin, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI là một điểm quan trọng, đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Về chính sách ưu tiên người có công, người dùng chính sách với cách mạng được quan tâm và được thực hiện tốt nhất trong điều kiện kinh tế – xã hội cho phép. Người có công thức được mở rộng; the level of the level of the leveled, the end ưu tiên Người có công được điều chỉnh hàng năm; giải quyết vấn đề hồ sơ cơ bản đề nghị công nhận người có công còn tồn đọng vào năm 2020. Đến nay, cả nước đã được xác nhận trên 9,2 triệu người có công; in that there on 1,2 triệu người có công thức hưởng chế độ ưu tiên hàng tháng.
Giai đoạn 2013-2019, cả nước đều hoàn thành hỗ trợ điểm nhà ở (đạt tỷ lệ 96,7% so với kế hoạch). Công tác vận hành đời sống gia đình có người và làm tốt công việc thương binh liệt sĩ đã thu hút được sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Đến năm 2020, Việt Nam an ninh 99,5% gia đình có công suất sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư trên địa bàn cư trú; 99% xã phường làm tốt công tác thương binh liệt sĩ.
Về chính sách làm việc, thu nhập và giảm nghèo, hằng năm giải quyết việc làm cho 1,5 đến 1,6 triệu người; Tỷ lệ thất nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%, Tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%. Do ảnh hưởng của COVID-19 đại dịch, năm 2020 và năm 2021 giải quyết việc làm giảm đi khoảng 1,3 triệu người / năm; năm 2020, Tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,25%, Tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 3,6%, năm 2021, Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động tăng lên 3,22%, ở khu vực thành thị là 4,42%. Hiện nay có khoảng 600.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với thu nhập ổn định, gửi về nước định lượng hối đoái, khoảng 3,5 Tỷ USD / năm.
Cơ cấu thu nhập tiến bộ hơn, Tỷ trọng thu nhập từ tiền lương, tiền công ngày càng tăng, từ 44,8% năm 2010 lên 57% năm 2021. Tỷ lệ hộ nghèo quân bình quân khoảng 2% / năm, từ 14 , 2% cuối năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015; Riêng các huyện nghèo giảm 6% / năm, từ 58,3% xuống còn 28%. Giai đoạn 2016-2020, mặc dù điều chỉnh nâng chuẩn đoạn nghèo nhưng tỷ lệ hộ nghèo cũng liên tục giảm quân từ 1 đến 1,5% / năm, từ 7,9% năm 2016 xuống còn 2,75% cuối năm 2020, năm 2021 giảm còn 2,23%; thu nhập quân đội nghèo năm 2020 bằng 2,3 lần so với năm 2015, bằng 3,5 lần năm 2010.
Về chính sách bảo hiểm xã hội và bảo mật thất nghiệp, diện bảo hiểm xã hội Việt Nam đạt 16,2 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội vào năm 2020. Trong tiền bối cảnh đại dịch COVID-19, số người tham gia gia bảo hiểm xã hội vẫn tiếp tục tăng, đạt 16,6 triệu người năm 2021, ước tính đạt 19 triệu người năm 2022. Tỷ lệ năng lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tăng đều hàng năm, đạt 32 , 6% năm 2020, 36% năm 2021. Năm 2021, cả nước có gần 3,3 triệu người dùng trang web và cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, được trả bằng nhiều hình thức, linh hoạt ( tiền mặt, qua điện, qua cá nhân tài khoản).
Về chính sách trợ giúp xã hội, số người giúp đỡ xã hội thường xuyên tăng lên hàng năm, đạt 3,042 triệu người (bao phủ hơn 3% dân số) năm 2020; đạt 3,25 triệu người (bao phủ 3,5% dân số) năm 2021, trong đó trên 55% là người cao tuổi; chính sách trợ giúp xã hội kết xuất bao phủ các nhóm đối tượng cần hỗ trợ, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời.
Về thực hiện các mục tiêu của Chính phủ trong COVID-19, năm 2020 và 2021, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành một loạt các chính sách để hỗ trợ người dân gặp khó khăn, không kịp thời ai left after. Năm 2020 đã hỗ trợ trên 10 triệu người có công, hộ nghèo, cận nghèo, xã hội bảo hộ đối tượng và lao động tự do, tổng kinh phí là 12,293 tỷ đồng; năm 2021 hỗ trợ gần 37,06 triệu lượt đối tượng, tổng kinh phí là 42,740 tỷ đồng. Các ngân sách địa phương cũng được bố trí để hỗ trợ các khó khăn khác nhau.