“Nắng lên nửa đoạn sến rồi
House bên í ới gọi mời chè xanh ”
Câu thơ mà tôi viết trong bài “Lục bát quê hương” cách nay hơn năm. Âu đó cũng là kỷ niệm “sống để chết mang đi” của một thời thơ ấu gắn bó với quê hương xứ sở.
Bây giờ, nói đến nước chè chát (chè xanh) mấy thứ xa lạ đối với người ở vùng khác quê vì giao thoa văn hóa vùng không bị giới hạn bởi ngăn cản địa phương như ba bốn năm về trước.
Nhưng cho dù sống có hiện đại, đổi bao nhiêu đi nữa thì cứ mời nhau bát nước sóng sánh, nóng hổi, tỏa hương thơm mát mãi là đặc trưng trong đời sống ẩm thực của người xứ Nghệ. qua, hôm nay và mai sau.
Tôi là một con người của xứ sở. Tuổi thơ tôi “mình” trong không khí của nét sinh hoạt đậm chất văn hóa miền, sâu nặng tình nghĩa xóm ấy.
Mặt trời lên nửa đoạn sào – giờ nhà nông được gọi là “buổi mở cày”, tức là người dùng kéo cày cho trâu bò, kết thúc buổi làm việc đồng. Thời gian tính toán như thế cũng rất riêng ở vùng quê này. Time that, mấy ai có đồng hồ, kể cả đơn giản báo thức đồng hồ.
Mùa hè xứ Nghệ nắng như đổ lửa, gió là gió thổi từng cơn nóng mặt. Người dân quê phải tranh thủ ra đồng từ rất sớm, lúc bốn giờ sáng. Làm khoảng tám chín giờ là cả người và trâu bò đều phải về làng để tránh nắng như thiêu. Người thì về nhà nghỉ ngơi, uống rượu chè giải nhiệt. Trâu bò thì bờ tre hay dưới bóng cây che nắng, rơm rạ, ăn cỏ chờ đến giờ quay lại đồng chủ để tối ưu hóa. Mùa trăng, người ta còn tranh thủ trăng thanh gió mát làm các công việc đồng giản đơn như cắt rạ, đập nước, be bờ. Có lẽ câu ca dao “Cô bé tát nước bên trong / Sao cô ánh trăng vàng đổ đi” ra đời trong tiên cảnh đó?
Trở lại chuyện mời chè của quê hương xứ sở.
Buổi sáng sớm, mẹ tôi đi chợ về, thế nào trong thúng hàng hông của bà cũng có một nụ cười tươi xanh. Về đến nhà thu xếp hàng xong là bà bắt tay vào làm chè, nấu nước. Chè rửa sạch bẻ nhỏ chờ nước gần sôi, vò kỹ cho vào ấm. Chè xanh kén nước. Làng có cả cái bể đất (được tạo ra bằng cách đào một cái sâu như hố bom để trữ nước) nhưng chẳng có cái nào được dùng để nấu chè xanh. Cả vùng chỉ có chùa, giữa đồng không mông quạnh là ngon nước nhất. Nước chùa không cạn bao giờ, trong vắt, ngọt mát, người làng lấy về cho vào lu, vại để nấu chè xanh hay làm tương.
Khi nước sôi kỹ, mẹ nấu cơm nguội, cho vào ấm trà, đồ nguội rồi đổ đi để khử mùi hôi của nước, sau đó mới đổ đầy nước, ủ ấm trong khoảng nửa tiếng đồng hồ.
Nước chè vừa chín tới, mẹ bước ra sân trước nhà, rồi cả ngõ sau hướng về nhà hàng xóm mà gọi lên: Nác mới bác Chắt! Nác mới bác Châu! Bà Sâm ơi, tôi mới!… Đó là khi tôi bận rộn đi học chứ không phải ngày nghỉ hay buổi học, nhiệm vụ gọi điện thoại cho tôi. Sau đó, tôi lớn lên, mấy lần dọn lại nhiều lần thay nhau làm việc có lẽ chỉ có ở xứ Nghệ quê mình.
Khi khách đến nhà thì trên bàn bày biện hai dãy đọi (bát sứ Hải Dương) rót đầy nước xanh, hơi thơm, nguyên vẹn quyến rũ. Trên bàn trò chuyện, thường thì có thêm khi là khoai lang hay là khoai tây xéo, khi đó là lạc hay lạc rang, mùa nào thức đó. Nếu là tân lang thì thế nào cũng có bát đĩa trắng tinh hoặc bát tiên bổ sung để ăn kèm với khoai tây đậm đà, dễ dàng. Một củ, hai quả cà, ba đọi nác – đó là “chuẩn” buổi sáng của nhà nông lúc này. Thế mới có câu ca tự bao đời, đã truyền khắp nước, quyến luyến bất cứ thứ quảng cáo nào hiện đại: “Ai ơi cà xứ Nghệ / Càng mặn càng giòn / Nước chè xanh xứ Nghệ / Càng chát càng ngon”.
Trẻ thì không thích uống trà nhưng tôi lại thích uống nước trà xanh pha mật những lúc đi cắt cỏ hay phụ đồng về mẹ dành cho. Thứ nước giải khát uống vào đâu mát gan đến đó, thấy khỏe hẳn ra, bao nhiêu cũng nóng bức mệt mỏi. Tôi cũng thích ăn khoai lang chấm mật. Mùi thơm bùi bùi với cái ngọt thanh của mật ngọt cứ đọng lại trong vị giác của cậu bé đói rách.
Đôi khi cao hứng, bố trí kiếm đâu được đầu cuốc mang ra, mời từng người một chén đĩa với món lạc rang, hạt to béo chỉ có ở vùng đất của xứ Nghệ. Cuộc sống dù giờ cũng rất khổ nhưng đủ dùng để ưu đãi hàng xóm những thức ăn uống dân dã buổi cày cuốc, sau những giờ lao động vất vả.
Quây quần bên bàn tán, chuyện làng, chuyện xóm, chuyện đánh Mỹ, chuyện Liên Xô, Trung Quốc cứ xôm tụ cả lên. Cảnh tượng lắng đọng trong sâu lắng tâm thức tôi. Nó là hồn cốt trong hành trang của mỗi người con quê hương dù ở lại làng hay đi làm ăn xa, mang theo suốt đời mà nâng niu mà quý trọng.
Bây giờ, mỗi lần về quê, tôi vẫn được thưởng thức món ăn truyền thống của quê hương. Nước tươi xanh, sóng sánh, nóng bỏng nhưng giờ là lúc cô sáng sớm.
Không còn cảnh các chị đi chợ về, trong một góc hàng “trị giá” không có lợi hay sức mạnh của các công đoạn vượt qua gần ba cây số. Time thì công việc đi nhẹ nhàng hơn, nhanh hơn. Creders xe, vù cái, đã thấy về.
Chè, mua một lần, bỏ ngăn mát tủ lạnh dùng cho ba bốn ngày. Không phải là chè Gôi (chợ Gôi) bên Hương Sơn, Hà Tĩnh của người làm chuyến chở hàng nặng nhọc hay chạy xe đạp kìn kìn kịt chè, vượt quãng đường gần hai chuyến đi ngang qua bến Vạn Rú. Time is chè Gay, chè Lạng trên miền ngược thuộc huyện Anh Sơn hay chè Thanh Chương. Mạn trên đó có những trang trại chè bạt ngàn. Không có ai làm bằng đôi vai hay xe đạp nữa. Chè bằng ô tô tải, sớm tinh mơ đã thấy trước cổng chợ Liệu xả hàng, người mua tha hồ mà lựa chọn.
Ăn sáng xong mới khoảng sáu có bố trí tôi sắp xếp, bày ly chén. Ông cụ năm nay ngoài chín mươi nhưng trông còn “phong độ”! Nhà có bố mẹ hát toàn khỏe, con cái hơn bắt được vàng.
Bây giờ không mấy ai uống nước trò chuyện bằng đọi nữa. Thay vào đó là ly thủy tinh hay cốc chén bằng sứ. Công việc đồng thời nhàn nhã hơn vì mọi công việc từ làm đất, gieo hạt đều thuê máy. Còn “buổi mở cày” nên thời gian uống trà sớm hơn, cũng như người thành phố vui vẻ cà phê sáng vậy. Đời sống thay đổi theo thời gian nên chẳng may ai mời nhau, khoai lang hay khoai xéo nữa. Những thứ đó đã đi vào quá khứ. Một củ khoai tây, hai quả cà phê có lẽ đã trở thành di sản quý hiếm chỉ còn trong câu ca dao. Nước chè chát thì còn đây, mỗi sáng, mỗi miền quê yên ả, dị thường.
Bây giờ, người được giao nhiệm vụ gọi hàng xóm sang uống nước chè là con bé Tép, cháu nội ông tôi. Hình như nó thích lắm với công việc này, đến giờ mà không thấy ông cố bảo vệ cái gì là chạy sang nhà hỏi ngay. Sau đó nó là cái xe đạp mini, đến trước cổng từng nhà để lên hết cỡ: “Mời ông Thìn, bà Nhàn, ông Sơn… sang cố Xuân uống nác!”.
Báo điện tử Dân Việt open “thôn chuyện” chuyên mục từ 4/3/2020. Các mục chuyên dành cho tất cả các tác giả chuyên nghiệp và không chuyên có tình yêu với làng quê và muốn chia sẻ câu chuyện thật của mình với bạn đọc.
Bài viết phải được đăng trên bất kỳ phương tiện nào của đại thông tin chúng tôi hoặc ấn phẩm nào. Các tác giả vui lòng ghi rõ họ tên, bút danh (nếu có), liên hệ địa chỉ, email, số điện thoại, số bút ký tài khoản.
Các bài viết hay nhất, chất lượng nhất sẽ được chọn để trao giải thưởng 2 tháng / lần.
Bài viết cộng tác với chuyên mục “Chuyện làng” xin gửi về email: [email protected]; ĐT liên hệ: 0903226305.